Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài 11 tháng năm 2021
- 30/11/2021
Tính lũy kế đến ngày 20/11/2021, cả nước có 34.424 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 405,9 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt gần 249 tỷ USD, bằng 61,3% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
Vốn thực hiện:
Ước tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 17,1 tỷ USD trong 11 tháng năm 2021, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2020, giảm nhẹ 0,1 điểm phần trăm so với 10 tháng năm 2021.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 11 tháng, song mức độ tăng giảm nhẹ so với 10 tháng. Xuất khẩu kể cả dầu thô ước đạt gần 220,2 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ, chiếm 73,6% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt gần 218,5 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ, chiếm 73,1% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực ĐTNN ước đạt trên 195,5 tỷ USD, tăng 29,5% so cùng kỳ và chiếm 65,5% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính chung trong 11 tháng năm 2021, khu vực ĐTNN xuất siêu trên 24,6 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu gần 23 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu 24,3 tỷ USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/11/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và GVMCP của nhà ĐTNN đạt 26,46 tỷ USD, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn đăng ký mới và vốn điều chỉnh tiếp tục duy trì mức tăng so với cùng kỳ. Trong khi đó, GVMCP vẫn giảm. Cụ thể:
Vốn đăng ký mới: Có 1.577 dự án mới được cấp GCNĐKĐT (giảm 31,8%), tổng vốn đăng ký đạt gần 14,1 tỷ USD (tăng 3,76% so với cùng kỳ).
Vốn điều chỉnh: Có 877 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 16,6%), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 8 tỷ USD (tăng 26,7% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 3.466 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 40,4%), tổng giá trị vốn góp đạt gần 4,4 tỷ USD (giảm 33% so với cùng kỳ).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo báo cáo).
Theo ngành:
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên 14 tỷ USD, chiếm 53% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù thu hút được số lượng dự án mới, điều chỉnh cũng như GVMCP không nhiều, song với quy mô dự án lớn nên đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư trên 5,7 tỷ USD, chiếm 21,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các ngành kinh doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt là 2,41 tỷ USD và 1,27 tỷ USD. Còn lại là các ngành khác.
Nếu xét về số lượng dự án mới thì công nghiệp chế biến chế tạo, bán buôn bán lẻ và hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ là các ngành thu hút được nhiều dự án nhất, chiếm lần lượt 30,5%, 28,1% và 16,5% tổng số dự án.
Theo đối tác:
Đã có 100 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 11 tháng năm 2021. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư trên 7,6 tỷ USD, chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 5,9% so với cùng kỳ 2020; Hàn Quốc đứng thứ hai với 4,36 tỷ USD, chiếm 16,5% tổng vốn đầu tư, tăng 17,6% so với cùng kỳ. Nhật Bản đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,7 tỷ USD, chiếm gần 14% tổng vốn đầu tư, tăng 54% so với cùng kỳ. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,…
Trong 11 tháng 2021, vốn đầu tư của Singapore gấp 1,74 lần vốn đầu tư của Hàn Quốc và gấp 2,1 lần vốn đầu tư của Nhật Bản do Singapore có dự án lớn 3,1 tỷ USD. Riêng dự án này đã chiếm tới 41% tổng vốn đầu tư của Singapore. Hàn Quốc mặc dù chỉ xếp thứ hai về vốn đầu tư, song lại là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới, số lượt dự án điều chỉnh vốn cũng như số lượt GVMCP. Như vậy, nếu xét về số lượng dự án, Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất trong 11 tháng.
Theo địa bàn:
Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 58 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 11 tháng. Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,76 tỷ USD, chiếm 14,2% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó có dự án điện lớn lên tới 3,1 tỷ USD (chiếm tới 82,4% tổng vốn đầu tư của Long An). TP Hồ Chí Minh đứng vị trí thứ hai với gần 3,43 tỷ USD, chiếm gần 13% tổng vốn đầu tư. Hải Phòng đứng thứ ba với tổng vốn đăng ký trên 2,8 tỷ USD, chiếm 10,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Bình Dương, Cần Thơ, Quảng Ninh,…
Nếu xét về số dự án, các nhà ĐTNN vẫn tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả về số dự án mới (36%), số lượt dự án điều chỉnh (18,5%) và GVMCP (59,6%). Hà Nội tuy không thuộc top 5 địa phương thu hút ĐTNN trong 11 tháng, song xếp thứ 2 về số dự án mới (21,8%) và số lượt GVMCP (12,5%).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo báo cáo).
Một số dự án lớn trong 11 tháng năm 2021:
(1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).
(2) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 2,15 tỷ USD (trong đó điều chỉnh tăng 1,4 tỷ USD ngày 30/8/2021 và tăng 750 triệu USD ngày 04/02/2021).
(3) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên 1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).
(4) Dự án nhà máy sản xuất giấy Kraft Vina công suất 800.000 tấn/năm (Nhật Bản), tổng vốn đầu tư 611,4 triệu USD với mục tiêu sản xuất giấy kraft, giấy lót và giấy bao bì tại Vĩnh Phúc (cấp GCNĐKĐT ngày 23/7/2021).
(5) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày 13/5/2021).
File đính kèm: Tải tại đây